Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Giải pháp giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

CỤC ATTP CŨNG TIẾN HÀNH LẤY NĂM MẪU GỪNG TRUNG QUỐC ĐỂ KIỂM TRA ATTP KHÁC VỚI CÁC MẪU GỪNG MÀ CỤC BẢO VỆ THỰC VẬT ĐÃ PHÂN TÍCH


I. Tư vấn ISO 9001   Điều mà nghiên cứu muốn đề cập đến là mối liên hệ giữa chất bảo vệ thực vật và căn bệnh máu trắng ở trẻ em


Trả lời về việc Bộ NN&PTNT sẽ kiểm soát như thế nào với tình trạng mất vệ sinh trong giết mổ, vận chuyển gia súc, gia cầm đã qua giết mổ… khá phổ biến hiện nay con số thống kê cho thấy, 90% điểm giết mổ tại miền Bắc không được kiểm soát, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết: Nguyên nhân của tình trạng này là do việc thực hiện các quy định của pháp luật chưa nghiêm. Chính vì vậy thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ phối hợp với các địa phương để tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật. Đồng thời sẽ đề xuất để ban hành những chính sách khuyến khích đối với những cơ sở giết mổ, đặc biệt là các cơ sở giết mổ nhỏ lẻ, để họ thực hiện đúng các quy định của luật pháp. Cũng theo Bộ trưởng, trong thời gian tới, sẽ khuyến khích phát triển những cơ sở giết mổ quy mô công nghiệp, khi đó sẽ đảm bảo được tốt hơn những quy định về VSATTP". Đó là kiến nghị đáng chú ý tại hội thảo lấy ý kiến đóng góp dự án luật này do Đoàn đại biểu QH TP.HCM tổ chức chiều 9-9. Ông Thái Thành Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV TP.HCM, cho biết không ít người trồng trọt vứt bừa bãi bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng khiến môi trường bị ảnh hưởng, lại dễ gây tai nạn cho người. Từ năm 2010 đến nay, Chi cục bảo vệ thực vật an giang lên sàn BVTV TP đặt nhiều dụng cụ chứa bao bì thuốc BVTV dọc các khu vực trồng lúa, rau để người trồng trọt bỏ vào. Đến nay, chi cục đã thu gom khoảng 20 tấn bao bì thuốc BVTV và đang trình UBND TP kế hoạch tiêu hủy. Kinh phí tiêu hủy do Nhà nước gánh chịu với số tiền không nhỏ. Hơn nữa, lượng bao bì thuốc BVTV thu gom không nhiều so với lượng thuốc người trồng trọt đã sử dụng” – ông Tâm nói. Theo Trần Ngọc/Pháp luật TP. HCM, 10/09/2013 Các bài cùng chủ đề: WHO kêu gọi ngăn chặn sự can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá Phát hiện doanh nghiệp nước ngoài xả thải ra môi trường Thuốc trừ sâu sinh học – Một giải pháp cho nông nghiệp bền vững Các doanh nghiệp di dời khỏi KCN Biên Hòa 1 được ưu tiên hỗ trợ Nhiều doanh nghiệp quên” xử lý nước thải Doanh nghiệp chung tay ứng phó biến đổi khí hậu Quy định sử dụng doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp Doanh nghiệp tư nhân cần quan tâm hơn đến môi trường Tập huấn tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp Doanh nghiệp nào cũng vi phạm ..


Trong cả nước hiện có 260 kho chứa thuốc BVTV, chủ yếu lưu giữ các loại thuốc BVTV đã hết hạn sử dụng qua công tác thu giữ, thanh tra. Nhưng toàn bộ số thuốc độc hại này chưa được tiêu hủy theo đúng qui định, việc lưu giữ bảo quản chưa được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do. Khảo sát thực tế thì các kho chứa hóa chất này tồn lưu hầu hết hệ thống thoát nước gần như không có nên khi mưa lớn tạo thành dòng nước mặt, gây ô nhiễm nước ngầm, nước mặt, ô nhiễm đất xung quanh và gây nguy hiểm cho người dân sống quanh khu vực. Cụ thể, Cục sẽ phối hợp với chính quyền xã, phường kiểm tra tại các cửa hàng buôn bán thuốc BVTV và các hộ nông dân việc chấp hành sử dụng thuốc BVTV, thời gian thực hiện từ nay đến hết ngày 15-12. Trong thời gian này, Cục sẽ chỉ đạo Thanh tra ngành các tỉnh tiến hành lấy mẫu thuốc và mẫu rau để kiểm tra chất lượng và dư lượng thuốc BVTV. Sư Thích Thanh Cường lên tiếng về iPhone 6 và điện thoại Vertu Mở nắp quan tài, lồng nhẫn vào tay người yêu tử nạn Thiếu nữ bị bán sang Malaysia: Uống thuốc lắc tiếp khách tới bến. Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng cung cấp nhiều thông tin liên quan để rộng đường dư luận và trấn an người tiêu dùng.CôngThương - Điều kiện thích hợp – hoàn toàn có thể Theo khẳng định của Cục trưởng Nguyễn Xuân Hồng, quả lê, quả táo giữ được lâu là hoàn toàn có thể xảy ra. Nếu như giống táo, giống lê có thời gian bảo quản dài, cộng với việc đã được sản xuất ở trong một điều kiện không bị nhiễm các vi sinh vật có thể gây hỏng nhanh trái cây và sau khi thu hoạch đã được xử lý bằng các chất bảo quản an toàn, rồi được giữ ở trong các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm phù hợp cho trái cây thì thời gian bảo quản của trái cây hoàn toàn có thể kéo dài được 6 – 10 tháng, thậm chí cả năm. Như vậy, có thể thấy, việc bảo quản trái cây phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và khi mà thấy trái cây giữ được lâu thì chưa nên vội kết luận đó là do các chất bảo quản độc hại”, ông Hồng nhận định. Đối với quả táo, lê mà hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Mỹ, Newzealand và Úc thì hiện trên bảo vệ thực vật thế giới hiện có khoảng 7.500 giống táo và gần 6.000 giống lê. Theo lý giải của Cục BVTV: Người ta chia ra các giống lê mà chín sớm thường có thời gian bảo quản ngắn chỉ 15-30 ngày. Đối với những giống lê chín trung bình, thời gian bảo quản từ 3-5 tháng. Nhưng có những giống lê mà chín muộn thì thời gian bảo quản có thể kéo dài 6-10 tháng. Những giống táo và lê chín muộn, có thời gian bảo quản dài thường được dùng để xuất khẩu. Giải thích về cơ chế giữ cho trái cây được tươi lâu mà vẫn giữ được hương vị, màu sắc, chất lượng, người đứng đầu Cục này cho biết, đây là kết quả của việc sử dụng các chất có khả năng kìm hãm quá trình sản sinh Etylen- một loại hooc môn thực vật được chính trái cây sản sinh ra để làm quả chín. Các chất này được gọi là các chất ức chế Etylen Etylen blockers hoặc là các chất chống ôxy hóa Antioxidants. Nhiều nước hiện nay đã cho phép sử dụng một số hóa chất rất là an toàn như: Dephenyl amin DPA, Ethoxiquyn và 1-MCP 1-metycyclopropene, trong đó chất 1-MCP đang được nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…sử dụng. Khi sử dụng chất này cộng với bảo quản ở điều kiện mát, quả táo có thể giữ được trên 8 tháng và không hề ảnh hưởng đến chất lượng, hương vị, màu sắc", ông Hồng nhấn mạnh. Trên 90% hoa quả nhập khẩu được kiểm tra nghiêm ngặt Liên quan đến việc thực thi các quy định của Luật An toàn thực phẩm, ông Hồng cho biết, với trách nhiệm được Bộ NN&PTNT giao, Cục BVTV đã và đang thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ kiểm tra an toàn thực phẩm các loại hoa quả nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam từ nhiều năm qua. Theo đó, hiện có trên 90% các loại hoa quả nước ngoài nhập vào Việt Nam qua con đường chính ngạch và đều được kiểm tra theo quy định của Thông tư 13 năm 2011 của Bộ NN&PTNT. Tại cửa khẩu, nơi mà lô hàng hoa quả được nhập vào Việt Nam, các đơn vị kiểm dịch thực vật ở cửa khẩu sẽ kiểm tra hồ sơ, nguồn gốc xuất xứ... Sau đó, nếu thấy đạt yêu cầu thì sẽ lấy mẫu để kiểm tra và cho thông quan. Quy trình này đang được áp dụng với những lô hàng kiểm tra thông thường. Còn đối với những lô hàng phải áp dụng phương pháp kiểm tra chặt thì phải chờ có kết quả kiểm tra đạt yêu cầu mới cho thông quan”, ông Hồng cho hay. Theo khẳng định của ông Nguyễn Xuân Hồng, đến nay Cục BVTV chưa phát hiện thấy có các nguy cơ do việc sử dụng chất bảo quản độc hại trên các loại quả táo, lê này. Những khi có sự cố nào trên thế giới hoặc của nước xuất khẩu hoa quả sang Việt Nam, Cục BVTV cũng đều quan tâm, nghiên cứu những thông tin đó nhằm có những bổ sung cần thiết vào quá trình kiểm tra để làm sao phát hiện được các mối nguy và quan trọng nhất ngăn chặn được các mối nguy, đảm bảo an toàn cho người sử dụng ở trong nước. Nguyễn Tiến Dũng Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng cung cấp nhiều thông tin liên quan để rộng đường dư luận và trấn an người tiêu dùng. PHẢN HỒI .. Chứng nhận hợp quy đồ chơi trẻ em
 Ảnh minh họa nguồn InternetMức dư lượng phát hiện vượt từ 1,5 - 5 lần so với mức tối đa cho phép theo quy định. Những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì kể cả lần đầu cũng truy xuất nguồn gốc, thu hồi lại. Nếu lần thứ 2 vi phạm sẽ bị giữ lại ngay biên giới, kiểm tra đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thì mới cho thông quan. Nếu như lần thứ 2 vi phạm nặng thì ngoài việc tái xuất, cơ quan chức năng sẽ nâng tần suất kiểm tra lên 100%. Nếu lần thứ 3 vi phạm thì lô hàng không chỉ bị tái xuất mà còn bị cấm nhập khẩu. Nguyễn Tú. Những hiểm họa từ hóa chất BVTV vẫn đang rình rập sức khỏe người dân. Phấp phỏng như ngồi trên ngọn cây Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Theo người dân xóm Vũ Kỳ xã Đồng Thành, huyện Yên Thành, thời chiến tranh, tại xóm này có một nhà kho của quân đội. Vì vùng này nhiều mối mọt, kiến... Nên bộ đội phải dùng thuốc BVTV chôn xung quanh để phòng tránh. Sau chiến tranh, bộ đội rút đi nhưng tồn dư thuốc BVTV chưa xử lý được triệt để. Cứ mỗi đợt nắng lâu ngày, mưa xuống là xung quanh khu vực kho nước nổi màu váng đục, mùi khó chịu bốc lên. Từ những năm 1990 - 1995, rồi đến 2004 - 2005 tại 2 xóm Vũ Kỳ và Hồng Kỳ liên tục có người chết vì ung thư vòm họng, dạ dày... Khiến người dân hoang mang. Ngay cả vỏ quả xoài dai là rứa mà trồng trong khu vực ni, cứ to ra là bị nứt...” - ông Nguyễn Văn Truyền - nhà ngay cạnh điểm kho thuốc cũ cho biết. Hiện nay nhà ông đã có nước sạch để dùng, nhưng trước đây, giếng nước có mùi hăng hăng nhưng gia đình vẫn phải sử dụng. Bà Đôn - vợ ông Truyền đã bị mắc một số bệnh như gan, thận, phổi... Ông Thái Văn Thành - Chủ tịch UBND xã Đồng Thành cho biết, ngay khi nhận được kiến nghị của xã về thực trạng tại nhà kho cũ, Bộ Quốc phòng đã cho đơn vị chức năng về kiểm tra, xử lý. Một hệ thống nước sạch dùng riêng cho 350 hộ dân tại 2 xóm Vũ Kỳ và Hồng Kỳ đã được đưa vào sử dụng. Tại xóm 15 xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu kho thuốc BVTV nơi đây vẫn còn khá nguyên vẹn. Ông Nguyễn Đức Châu - Phó Chủ tịch UBND xã cho biết, ngoài 1 điểm ở đây thì còn 2 điểm nữa nằm trong khu dân cư tại xóm 6. Trước đây, có một con mương được làm phía dưới kho tại xóm 15 để khi mưa xuống thuốc theo nước chảy đi. Nhưng phương án này không hiệu quả vì mỗi khi mưa to, mương tràn nước thuốc lại lan ra ngoài. Trong khi đó, điểm kho thuốc BVTV tại xóm 4 xã Nam Lĩnh, huyện Nam Đàn đã được xử lý, nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Chị Nguyễn Thị Phương - nhà ngay bên cạnh khu đất có kho thuốc cho hay: Sau khi xử lý, mấy anh nớ nhờ tui trông nom rau khoai trồng thử nghiệm trên đó. Nhưng khi rau đang lên xanh thì bất ngờ úa vàng rồi rụi chết”. Con trai chị Phương là cháu Đinh Xuân Chiến và cháu ngoại Nguyễn Khánh Linh ở cùng nhà bà Phương bị ung thư qua đời. Cạnh đó, ông Nguyễn Hữu Duân cũng đã mất vì ung thư. Trước đây, khu vực kho thuốc được người dân đào lên định thả cá thì phát hiện những bánh” thuốc như bánh xà phòng, thả cá xuống thì cá chết. Thiếu kinh phí và công nghệ xử lý Bà Nguyễn Thị Đào - Chi cục phó Chi cục BVTV Nghệ An cho biết, theo điều tra khảo sát và đánh giá sơ bộ của đơn vị này thì địa bàn Nghệ An có 913 điểm tồn dư thuốc BVTV. Số điểm tồn dư này phân bố ở 446 xã trên địa bàn, tập trung ở vùng đồng bằng và trung du. Các kho thuốc này chủ yếu dùng trong nông nghiệp bao ve thuc vat với hệ thống các hợp tác xã trước đây, nông - lâm trường, các xã - đội...; tiếp đó là một phần ở các kho của quân đội, y tế dùng để chống mối mọt, côn trùng,... Thực trạng tồn dư thuốc BVTV có nhiều nguyên nhân. Trước đây, chúng ta dùng thuốc BVTV chỉ quan tâm đến vấn đề sử dụng, chưa quan tâm đến vấn đề môi trường. Nhiều nơi xảy ra tình trạng, khi bàn giao chúng ta chỉ chuyển giao bộ máy nhân sự, còn kho thuốc thì bỏ quên. Chính vì vậy người dân đã tự lấy thuốc về sử dụng riêng, một số nơi chính quyền còn cho dân xây dựng nhà trên nền kho thuốc cũ. Nhận thức của người dân trước đây còn xem nhẹ tác hại của thuốc BVTV. Việc xử lý các điểm tồn dư thuốc BVTV đang là vấn đề đau đầu” của các cơ quan liên quan. Thực tế, trong số 913 điểm tại Nghệ An, Chi cục BVTV cũng mới chỉ sơ bộ khảo sát đánh giá được trên 277 điểm, số còn lại chưa thực hiện được vì thiếu kinh phí. Chỉ tính riêng việc lấy mẫu phân tích đã phải chi nguồn kinh phí khá lớn. Thông thường, mỗi điểm khảo sát sẽ được lấy mẫu từ 10 - 20 vị trí, mỗi vị trí lại phải lấy tại 2 - 3 tầng đất, rồi nước... Nếu giá 1 mẫu phân tích năm 2008 khoảng 1,5 triệu đồng thì từ năm 2012 đã lên trên 3 triệu đồng. Ngoài vấn đề kinh phí là vấn đề chuyên môn. Cơ bản, việc xử lý theo 2 hình thức chôn lấp tích cực và xử lý hóa chất. Nhưng dù có biện pháp gì thì cũng không thể xử lý nửa chừng. Phải có các trung tâm kiểm định độc lập để kiểm tra, đánh giá. Nếu ít kinh phí, thì việc làm đầu tiên là phải xây dựng được nguồn nước sạch để sử dụng, nơi nặng có thể di dời dân cách xa vị trí kho” - bà Đào cho biết. Ông Chu Thế Huyền - Phó Giám đốc Sở TN-MT Nghệ An cho rằng, khó nhất trong vấn đề xử lý tồn dư thuốc BVTV là công nghệ và kinh phí. Mặc dù chưa có tính toán cụ thể, nhưng để xử lý các điểm tồn dư thuốc trên địa bàn Nghệ An phải tốn hàng ngàn tỷ đồng. Hiện Sở TN-MT đang tiến hành điều tra, khảo sát, lập hồ sơ trình các cấp có thẩm quyền ở trung ương để có hướng giải quyết. Duy Cường. Tại lớp tập huấn, 50 học viên đã được hướng dẫn cách phân loại thuốc BVTV, thuốc trừ sâu, trừ cỏ, trừ bệnh, các biện pháp an toàn và sơ cứu ngộ độc khi sử dụng thuốc BVTV...Thanh Nga .


II. Chứng nhận GlobalGAP Hay 1 thanh niên 17 tuổi ăn 50kg cà rốt có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép thì mới mất an toàn


.Bản báo cáo của Trung tâm Hữu cơ TOC, Hiệp hội Các nhà Khoa học UCS và Trung tâm An toàn Thực phẩm CFS - cho biết, lượng thuốc trừ cỏ sử dụng đã tăng 383 triệu pao 1 pao = 453.59237 gram từ năm 1996 đến năm 2008, trong đó 46 % lượng gia tăng là trong khoảng 2007-2008. Theo Báo cáo, trong khi lượng thuốc diệt cỏ sử dụng tăng lên, thì lượng thuốc trừ sâu lại giảm, kết quả của việc áp dụng các giống cây biến đổi gen có đặc tính kháng côn trùng. Tính từ năm 1996, lượng thuốc trừ sâu sử dụng đã giảm 64 triệu pao. Sau 13 năm thương mại hóa cây trồng biến đổi gen, tổng lượng thuốc BVTV dùng trong nền nông nghiệp Hoa Kỳ đã tăng 318 triệu pao, bao gồm cả thuốc trừ sâu và chất diệt cỏ. Lượng thuốc diệt cỏ được gia tăng sử dụng là do nông dân Mỹ ngày càng trồng nhiều các loại ngô, đậu tương và bông đột biến gen có khả năng kháng thuốc diệt cỏ. Phổ biến nhất là giống đậu tương Roundup Ready với khả năng chống chịu với thuốc diệt cỏ Roundup, một loại giống của Công ty Monsanto – người khổng lồ” trong ngành công nghiệp hạt giống thế giới. Các viên chức Monsanto từ chối bình luận về bản báo cáo trên. Trong khi đó, Tổ chức Công nghệ Sinh học mà Monsanto là thành viên cho biết, việc giống cây trồng kháng thuốc trừ cỏ được áp dụng rộng rãi cho thấy giá trị vượt xa mọi hệ lụy của nó. Ông Mike Wach, Giám đốc Ban khoa học và Quản lý của Tổ chức Công nghệ Sinh học thì cho rằng rõ ràng loại giống này đã mang lại những lợi ích nhất định đối với nông dân. Bởi vì nếu nông dân cảm thấy loại cây này mang lại nhiều khó khăn hơn là thuận lợi thì họ đã ngừng sử dụng. Các viên chức của Tổ chức Công nghệ Sinh học còn viện dẫn một báo cáo do Economics PG Ltd. Công bố đầu năm 2009 cho biết lượng chất diệt cỏ sử dụng trong các loại cây trồng đậu tương công nghệ sinh học trên toàn cầu giảm 161 triệu pao, tức là 4,6% từ 1996 đến 2007. Theo bản báo cáo của các nhóm môi trường, sự gia tăng sử dụng thuốc trừ cỏ đặc biệt nguy hại ở chỗ, nó khiến các loại siêu cỏ dại sản sinh, trong khi giống cỏ dại này rất khó tiêu diệt vì bản thân chúng đã có khả năng kháng thuốc diệt cỏ. Ông Charles Benbrook, giám đốc khoa học TOC cho biết, với loại cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ Glyphosate hiện đang hoành hành trên các cánh đồng, nông dân phải đối mặt với chi phí phát sinh gấp đôi và còn có nguy cơ mất mùa, chưa kể tới các ảnh hưởng môi trường khác. Các nhóm môi trường cũng chỉ trích ngành công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp vì trước đây họ từng rao giảng rằng chi phí cao hơn mà nông dân phải bỏ ra để mua hạt giống biến đổi gen sẽ được bù đắp bằng những lợi ích vượt trội, bao gồm cả việc giảm chi phí thuốc trừ sâu. Được biết, giá hạt giống ngô công nghệ sinh học năm 2010 có thể tăng gấp gần ba lần chi phí hạt giống thông thường, trong khi đó hạt giống đậu tương công nghệ sinh học cải tiến năm 2010 có thể tăng giá tới 42% so với phiên bản công nghệ sinh học gốc. Bản báo cáo được đánh giá là đã xác nhận những cảnh báo trong nhiều năm qua từ giới khoa học, rằng các loại cây trồng biến đổi gen khiến việc sử dụng thuốc BVTV tăng, làm lan tràn dịch cỏ dại, để lại dư lượng hóa chất trong thực phẩm. Điều này rốt cục chỉ sinh lợi cho các công ty công nghệ sinh học, các công ty sản xuất thuốc BVTV, nhưng lại mang họa cho nông dân, sức khỏe con người và môi trường. Đồng Linh Theo Reuter. Thu gom rác thải nông nghiệp tại tỉnh An Giang. Ảnh: Báo An Giang. Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Hiện hầu hết các loại thuốc BVTV sử dụng ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Hàng năm, Việt Nam nhập khẩu trên 70.000 tấn thành phẩm với trị giá 210 – 500 triệu USD, trong đó, trên 90% thuốc được nhập khẩu từ Trung Quốc. Theo Cục BVTV, trước năm 2003, lượng thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam không bao giờ vượt quá con số 40.000 tấn/năm.Tuy nhiên, từ năm 2004 đến nay lượng nhập đã tăng gấp đôi, cá biệt như năm 2008, lượng nhập khẩu lên tới hơn 10.000 tấn. Trong số này, theo đánh giá thì chỉ có khoảng 2.000 tấn là do các doanh nghiệp kinh doanh thuốc BVTV nhập nguyên liệu về, sau đó sang chai, đóng gói và xuất khẩu sang nước thứ 3, còn lại đều đổ hết xuống đồng ruộng nước ta.Ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục BVTV cho biết, để quản lý hiệu quả hóa chất BVTV, Cục đã thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành các đợt thanh tra, kiểm tra chất lượng tại các cửa hàng, công ty buôn bán thuốc BVTV trên địa bàn. Tuy nhiên, theo ông Hồng, thực tế, việc quản lý hóa chất tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do những bất cập trong việc phân chia vai trò, trách nhiệm, kho chứa, kinh phí lưu trữ cũng như tiêu hủy.Một vấn đề nữa, theo Cục BVTV, để cạnh tranh thị phần, các nhà sản xuất đã sẵn sàng nhập nguyên liệu từ những nước có giá thành thấp, chất lượng kém. Giá thành giữa các sản phẩm do đó chênh lệch nhau rất lớn. Sau khi trải qua các khâu trung gian phân phối, sản phẩm đến tay người nông dân đã không được kiểm định về chất lượng, còn giá thì cao.Để giải quyết tất cả những vấn đề trên, Cục BVTV và một số cơ quan chức năng cho rằng, muốn quản lý tốt hóa chất BVTV, nhất thiết phải có sự vào cuộc, tham gia của 6 bộ là: NNPTNT, Công Thương, Tài nguyên - Môi trường, Tài chính, Công an và Quốc phòng, theo nguyên tắc: Đảm bảo, tuân thủ các quy định hiện hành về thẩm quyền của các bên; bảo đảm nguyên tắc có một bao ve thuc vat đầu mối chịu trách nhiệm chính và có các cơ quan phối hợp; đảm bảo sự thống nhất, kịp thời hỗ trợ nhau.Các cơ quan quản lý nhà nước từ T.Ư đến địa phương cần siết chặt các cơ chế phối hợp giữa 6 bên liên quan trong công tác quản lý hóa chất BVTV nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm nhập lậu, sử dụng thuốc nhập lậu.... Từ đó, hạn chế những tiêu cực do hóa chất không rõ nguồn gốc gây ra” - ông Hồng nêu quan điểm.Anh Vân .


Ông Huỳnh Phước Tuấn, đại diện Antesco cho biết, ngày 11/12, công ty tiến hành lấy mẫu đậu nành rau nguyên liệu kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trước khi thu hoạch tại hộ Phan Văn Đây, xã viên Hợp tác xã nông nghiệp Thành Lợi thị trấn Cái Dầu. Kết quả cho thấy hàm lượng cypermethrin và difecconazole đều vượt mức cho phép. Tiêu hủy đậu nành rau Theo trình bày của ông Phan Văn Đây, vì hiệu quả kinh tế của đậu nành rau rất cao nên ông đã tuân thủ đúng thời gian cách ly theo khuyến cáo khi phun thuốc BVTV. Nhiều khả năng việc nhiễm này là do ảnh hưởng từ việc phun thuốc đám đậu nành liền kề. Theo kỹ sư Huỳnh Thị Khắc Hạnh, Phó phòng NN-PTNT huyện Châu Phú, cũng không loại trừ khả năng do ảnh hưởng thời tiết bất thường, cây đậu nành rau bị nhiễm bệnh nám trái, và do đây là bệnh mới, chưa có phác đồ điều trị tích cực và hiệu quả nên nông dân đã phun xịt nhiều loại thuốc… dẫn đến tình trạng dư lượng thuốc BVTV. Được biết, đây là số đậu nành rau trong thửa 0,6ha của ông Đây, có tổng sản lượng 6.000kg. Ngoài số lượng tiêu hủy, ông Đây cũng cam kết không bán ra ngoài cho người tiêu dùng 4.700kg đậu nành rau còn lại. Tùng Hương. Đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội trường.Trước thực trạng các địa phương chưa có hệ thống thu gom bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng, cùng với sự thiếu ý thức của nhiều người sử dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe, nhiều đại biểu yêu cầu Dự thảo Luật làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng. Theo các đại biểu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về nhà sản xuất, buôn bán thuốc BVTV. Trong trường hợp họ không tự giác thu hồi thì cơ quan có thẩm quyền xử phạt và ra quyết định bắt buộc phải thu hồi. Đại biểu Triệu Thị Thu Phương Bắc Kạn cho rằng, bên cạnh quy định khuyến khích nhà sản xuất sử dụng loại bao bì dễ tái chế để giảm bớt chi phí thu gom, xử lý sau khi sử dụng, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung quy định: Cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV phải nộp một khoản phí thu gom, xử lý bao gói thuốc BVTV. "Tôi đề nghị Luật nên quy định thu một khoản từ các nhà sản xuất, kinh doanh giao cho UBND xã thuê các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng, tiêu hủy thuốc BVTV vô chủ, nếu thiếu thì ngân sách mới cấp bù. Như vậy, sẽ giải quyết được vấn đề kinh phí và vấn đề tổ chức thực hiện thống nhất quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường" - Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hằng Nam Định nhấn mạnh. Đồng tình với ý kiến trên, đại biểu Nguyễn Thúy Hoàn Thái Bình đề nghị chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho công tác tuyên truyền, phổ biến, sử dụng thuốc BVTV an toàn và hỗ trợ dụng cụ bảo hộ lao động cho người sử dụng. Thực tế, hiểu biết của người nông dân về thuốc BVTV còn rất hạn chế nên việc lạm dụng thuốc ở mức cao, sử dụng không đúng liều chiếm tới 70,8%, tự pha chế hỗn hợp 2 hay nhiều loại thuốc BVTV với nhau lên tới 87,9%. Về các hành vi bị cấm, đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh tán thành với việc cấm nhập khẩu đất nói chung để loại bỏ nguy cơ sinh vật gây hại xâm nhập vào nội địa. Tuy nhiên, với các trường hợp bảo vệ thực vật phục vụ nghiên cứu khoa học, làm giống và cây cảnh..., nên quy định các cây giống kèm theo đất chỉ được nhập khẩu vào một số cửa khẩu nhất định, những nơi có trang bị các phương tiện kiểm soát sinh vật gây hại có trong đất. Đối với thực vật, sản phẩm thực vật không đủ điều kiện tiêu chuẩn xuất khẩu vì lý do nhiễm sinh vật gây hại, cần bổ sung theo quy định tiêu hủy và cấm không được tiêu thụ tại thị trường nội địa. Đại biểu Touneh Drong Minh Thắm Lâm Đồng cho rằng: Nhiều trường hợp gây hại mà chưa được đề cập tới trong văn bản này như sinh vật ngoại lai và sinh vật biến đổi gien. Đồng thời, cần bổ sung nghiêm cấm một số hành vi như phát tán sinh vật gây hại, bao che đối với kinh doanh, sản xuất thuốc BVTV không có trong danh mục. Bổ sung thêm khuyến cáo: Cấm người mang thai hoặc đang cho con bú tham gia vào quá trình sản xuất, buôn bán, vận chuyển thuốc BVTV; cấm bán thuốc BVTV cho trẻ em dưới 16 tuổi; cấm trẻ em dưới 16 tuổi sử dụng thuốc BVTV. Thống kê cả nước có tới 28.593 đại lý và hàng chục ngàn cơ sở bán lẻ thuốc BVTV, đại biểu Nguyễn Thúy Hoàn Thái Bình đề nghị nâng điều kiện: Chủ cơ sở bán buôn thuốc BVTV phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Người trực tiếp bán thuốc phải có chứng chỉ bồi dưỡng về chuyên môn, về thuốc BVTV. Đồng thời, quy định về thời gian hiệu lực sử dụng chứng chỉ 2-3 năm cần phải cấp lại để những người bán trực tiếp thuốc BVTV có điều kiện cập nhật các kiến thức mới. Phân tích từ góc độ quản lý chất lượng thực vật và sản phẩm thực vật trên thị trường, đại biểu Tôn Thị Ngọc Hạnh Đắk Nông cho rằng, một số quy định còn mờ nhạt khó khả thi khi không chỉ rõ đối tượng trong phạm vi điều chỉnh: Người sử dụng thuốc BVTV cũng chính là người sản xuất thực vật, sản phẩm thực vật và nhiều người đóng cả vai trò buôn bán. Kiểm dịch thực vật qua cửa khẩu Hùng Quốc Cao Bằng. Các đại biểu cũng đề nghị quy định về trách nhiệm quản lý Nhà nước cần bổ sung làm rõ với các ngành liên quan đến xuất nhập khẩu và kiểm dịch như: BĐBP, Hải quan, Y tế... Cho phù hợp với thực tiễn và đề nghị có cơ chế phối hợp chuyên ngành đạt hiệu quả cao. Đại biểu Nguyễn Hoài Phương Tây Ninh phát biểu: Cần xác định rõ trách nhiệm phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện các công tác kiểm dịch thực vật nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, chuyển vào kho ngoại quan, kiểm dịch sau nhập khẩu tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý. Phối hợp trong tuyên truyền phổ biến pháp luật về kiến thức kiểm dịch thực vật, xử lý vi phạm pháp luật, kiểm dịch thực vật theo thẩm quyền. Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các văn bản về bảo vệ kiểm dịch thực vật trong trường hợp đảm bảo về quốc phòng và an ninh. HL Email Print Góp ý. Sơ chế rau an toàn trước khi bán ra thị trường tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Chiều nay, 21-6, kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIII sẽ họp phiên bế mạc sau sau 5 tuần làm việc từ 20/5 – 21/6, hoàn thành chương trình đề ra. Tại phiên bế mạc, Quốc hội sẽ thông qua Nghị quyết về việc kéo dài thời hạn đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân. Như vậy, sau khi thảo luận, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã thống nhất chưa thông qua Luật đất đai sửa đổi tại kỳ họp lần này. Chiều nay, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu sẽ trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về việc đó. Cũng trong phiên bế mạc chiều nay, Quốc hội sẽ thông qua Nghị quyết về kết quả giám sát Việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2006-2012”; thông qua Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII. Phiên bế mạc Quốc hội chiều nay sẽ được phát thanh truyền hình trực tiếp.. Cơ quan chức năng đã tạm giữ 70 chai Bioncin 8000 SC loại 100 ml, 100 chai thuốc trừ sâu Sagomycin 20 FC loại 100 ml, 92 chai Callilex 50SC loại 100 ml, 27 chai rầy Bascgde 50 EC loại 240 ml, 25 chai Hinosan 30EC loại 100 ml, 200 gói thuốc trừ cỏ và Oesta...Toàn bộ số hàng trên đã được tổ công tác niêm phong để làm thủ tục tiêu hủy theo quy định. Để bảo quản trong quá trình vận chuyện, nhiều người dân Trung Quốc đã sử dụng trái phép dung dịch formaldehyde. Ảnh minh hoạ: Agzone. Nhiều loại rau trên thị trường nhiễm chất độc vượt mức cho phép. Đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội trường.Trước thực trạng các địa phương chưa có hệ thống thu gom bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng, cùng với sự thiếu ý thức của nhiều người sử dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe, nhiều đại biểu yêu cầu Dự thảo Luật làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng. Theo các đại biểu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về nhà sản xuất, buôn bán thuốc BVTV. Trong trường hợp họ không tự giác thu hồi thì cơ quan có thẩm quyền xử phạt và ra quyết định bắt buộc phải thu hồi. Đại biểu Triệu Thị Thu Phương Bắc Kạn cho rằng, bên cạnh quy định khuyến khích nhà sản xuất sử dụng loại bao bì dễ tái chế để giảm bớt chi phí thu gom, xử lý sau khi sử dụng, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung quy định: Cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV phải nộp một khoản phí thu gom, xử lý bao gói thuốc BVTV. "Tôi đề nghị Luật nên quy định thu một khoản từ các nhà sản xuất, kinh doanh giao cho UBND xã thuê các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng, tiêu hủy thuốc BVTV vô chủ, nếu thiếu thì ngân sách mới cấp bù. Như vậy, sẽ giải quyết được vấn đề kinh phí và vấn đề tổ chức thực hiện thống nhất quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường" - Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hằng Nam Định nhấn mạnh. Đồng tình với ý kiến trên, đại biểu Nguyễn Thúy Hoàn Thái Bình đề nghị chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho công tác tuyên truyền, phổ biến, sử dụng thuốc BVTV an toàn và hỗ trợ dụng cụ bảo hộ lao động cho người sử dụng. Thực tế, hiểu biết của người nông dân về thuốc BVTV còn rất hạn chế nên việc lạm dụng thuốc ở mức cao, sử dụng không đúng liều chiếm tới 70,8%, tự pha chế hỗn hợp 2 hay nhiều loại thuốc BVTV với nhau lên tới 87,9%. Về các hành vi bị cấm, đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh tán thành với việc cấm nhập khẩu đất nói chung để loại bỏ nguy cơ sinh vật gây hại xâm nhập vào nội địa. Tuy nhiên, với các trường hợp phục vụ nghiên cứu khoa học, làm giống và cây cảnh..., nên quy định các cây giống kèm theo đất chỉ được nhập khẩu vào một số cửa khẩu nhất định, những nơi có trang bị các phương tiện kiểm soát sinh vật gây hại có trong đất. Đối với thực vật, sản phẩm thực vật không đủ điều kiện tiêu chuẩn xuất khẩu vì lý do nhiễm sinh vật gây hại, cần bổ sung theo quy định tiêu hủy và cấm không được tiêu thụ tại thị trường nội địa. Đại biểu Touneh Drong Minh Thắm Lâm Đồng cho rằng: Nhiều trường hợp gây hại mà chưa được đề cập tới trong văn bản này như sinh vật ngoại lai và sinh vật biến đổi gien. Đồng thời, cần bổ sung nghiêm cấm một số hành vi như phát tán sinh vật gây hại, bao che đối với kinh doanh, sản xuất thuốc BVTV không có trong danh mục. Bổ sung thêm khuyến cáo: Cấm người mang thai hoặc đang cho con bú tham gia vào quá trình sản xuất, buôn bán, vận chuyển thuốc BVTV; cấm bán thuốc BVTV cho trẻ em dưới 16 tuổi; cấm trẻ em dưới 16 tuổi sử dụng thuốc BVTV. Thống kê cả nước có tới 28.593 đại lý và hàng chục ngàn cơ sở bán lẻ thuốc BVTV, đại biểu Nguyễn Thúy Hoàn Thái Bình đề nghị nâng điều kiện: Chủ cơ sở bán buôn thuốc BVTV phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Người trực tiếp bán thuốc phải có chứng chỉ bồi dưỡng về chuyên môn, về thuốc BVTV. Đồng thời, quy định về thời gian hiệu lực sử dụng chứng chỉ 2-3 năm cần phải cấp lại để những người bán trực tiếp thuốc BVTV có điều kiện cập nhật các kiến thức mới. Phân tích từ góc độ quản lý chất lượng thực vật và sản phẩm thực vật trên thị trường, đại biểu Tôn Thị Ngọc Hạnh Đắk Nông cho rằng, một số quy định còn mờ nhạt khó khả thi khi không chỉ rõ đối tượng trong phạm vi điều chỉnh: Người sử dụng thuốc BVTV cũng chính là người sản xuất thực vật, sản phẩm thực vật và nhiều người đóng cả vai trò buôn bán. Kiểm dịch thực vật qua cửa khẩu Hùng Quốc Cao Bằng. Các đại biểu cũng đề nghị quy định về trách nhiệm quản lý Nhà nước cần bổ sung làm rõ với các ngành liên quan đến xuất nhập khẩu và kiểm dịch như: BĐBP, Hải quan, Y tế... Cho phù hợp với thực tiễn và đề nghị có cơ chế phối hợp chuyên ngành đạt hiệu quả cao. Đại biểu Nguyễn Hoài Phương Tây Ninh phát biểu: Cần xác định rõ trách nhiệm phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện các công tác kiểm dịch thực vật nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, chuyển vào kho ngoại quan, kiểm dịch sau nhập khẩu tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý. Phối hợp trong tuyên truyền phổ biến pháp luật về kiến thức kiểm dịch thực vật, xử lý vi phạm pháp luật, kiểm dịch thực vật theo thẩm quyền. Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp bảo vệ thực vật an giang và Phát triển nông thôn ban hành các văn bản về bảo vệ kiểm dịch thực vật trong trường hợp đảm bảo về quốc phòng và an ninh. HL Email Print Góp ý .


III. ,Chứng nhận hợp chuẩn thép thanh cán mỏng  Dự thảo luật cũng đã quy định về việc xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật đã qua sử dụng Điều 75


Đặc biệt, cơ quan này vừa phát hiện cơ sở sản xuất giá làm từ đậu xanh của hộ Đỗ Thanh Tùng ấp Mỹ Thuận, xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên có sử dụng loại thuốc không rõ nguồn gốc, thành phần, bên ngoài mang nhãn hiệu của Trung Quốc. Tại cơ sở này, đoàn kiểm tra phát hiện 1.500 ống thuốc đã sử dụng và 22 ống thuốc chưa sử dụng loại 2ml. Ông Tùng khai số thuốc này mua từ cửa hàng chuyên kinh doanh hàng nông sản Phượng Nga phường Mỹ Long, TP Long Xuyên. Tại cửa hàng Phượng Nga, thanh tra chuyên ngành phối hợp với lực lượng công an, quản lý thị trường kiểm tra phát hiện 6.000 ống thuốc giống loại ông Tùng sử dụng. Vụ việc đang được cơ quan chức năng tiếp tục điều tra làm rõ. Giống hoa lily Sorbonne nhập nội của Hà Lan đã được Viện di truyền Nông nghiệp khảo nghiệm và cho trồng chính thức tại các tỉnh phía bắc từ năm 2009. Ảnh: Viện nghiên cứu rau quả. Công tác Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật có vai trò đặc biệt quan trọngPhó Cục trưởng Cục BVTV Hoàng Trung cho biết, hoạt động kiểm tra, thanh tra BV&KDTV thời gian qua được tăng cường và xử lí kịp thời nhiều vụ vi phạm. Hàng năm, thanh tra chuyên ngành tiến hành kiểm tra việc sử dụng thuốc BVTV được khoảng 5.000 lượt hộ nông dân, tỷ lệ vi phạm khoảng 25%, trong đó chủ yếu là sử dụng thuốc BVTV không đúng quy trình kỹ thuật. Theo ông Hoàng Trung, bước đầu cũng đã kiểm soát được mức dư lượng thuốc BVTV trong rau, quả, chè, tuy nhiên do kinh phí hạn chế nên các chi cục BVTV mới chỉ sử dụng được phương pháp kiểm tra nhanh để kiểm tra chất lượng rau, quả. Các đại biểu dự hội nghị cho rằng, mặc dù Pháp lệnh BV&KDTV đã góp phần tạo cơ sở pháp lý trong việc bảo vệ an toàn sản xuất nông nghiệp, tăng hiệu lực quản lí của Nhà nước về công tác này nhưng các quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BV&KDTV còn thiếu và mức xử phạt thấp nên thiếu tính răn đe. Cục BVTV kiến nghị sớm ban hành Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật để điều chỉnh toàn diện và thống nhất các vấn đề về quản lý, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số luật liên quan như: Luật Thanh tra, Luật An toàn vệ sinh thực phẩm... Để bảo đảm tính đồng bộ khi triển khai thực hiện. Tại lớp tập huấn, 50 học viên đã được bao ve thuc vat hướng dẫn cách phân loại thuốc BVTV, thuốc trừ sâu, trừ cỏ, trừ bệnh, các biện pháp an toàn và sơ cứu ngộ độc khi sử dụng thuốc BVTV...Thanh Nga .. Ảnh minh họa nguồn InternetMức dư lượng phát hiện vượt từ 1,5 - 5 lần so với mức tối đa cho phép theo quy định. Những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì kể cả lần đầu cũng truy xuất nguồn gốc, thu hồi lại. Nếu lần thứ 2 vi phạm sẽ bị giữ lại ngay biên giới, kiểm tra đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thì mới cho thông quan. Nếu như lần thứ 2 vi phạm nặng thì ngoài việc tái xuất, cơ quan chức năng sẽ nâng tần suất kiểm tra lên 100%. Nếu lần thứ 3 vi phạm thì lô hàng không chỉ bị tái xuất mà còn bị cấm nhập khẩu. Nguyễn Tú. Thống kê của cơ quan chức năng, hiện Lạng Sơn có khoảng 36 loại thuốc BVTV, Lào Cai có khoảng 18 loại thuốc BVTV cực độc, không được phép sử dụng đã nhập lậu qua biên giới và đang được bày bán công khai. Trong đó, có Bảo vệ thực vật những loại Việt Nam đã cấm sử dụng từ những năm 1980 như: Thuốc trừ sâu 666, thuốc trừ cỏ 2.4.5 T Brochtox, Decamine, Veon.... Còn theo Tổng cục Hải quan, hiện nay các mặt hàng thuốc BVTV được nhập lậu vào Việt Nam ngày càng tinh vi và rất khó phát hiện, vì phần lớn các đối tượng buôn lậu thuê bà con khu vực biên giới vận chuyển thuốc BVTV số lượng ít, đi đường mòn, đường tắt. Trên 80% số thuốc BVTV trôi nổi hiện nay đã nhập lậu theo dạng này. P.N.L. Cơ quan chức năng đã tạm giữ 70 chai Bioncin 8000 SC loại 100 ml, 100 chai thuốc trừ sâu Sagomycin 20 FC loại 100 ml, 92 chai Callilex 50SC loại 100 ml, 27 chai rầy Bascgde 50 EC loại 240 ml, 25 chai Hinosan 30EC loại 100 ml, 200 gói thuốc trừ cỏ và Oesta...Toàn bộ số hàng trên đã được tổ công tác niêm phong để làm thủ tục tiêu hủy theo quy định. Bể được làm từ vật liệu composite, có hai ngăn và nắp đậy nên dễ sửa chữa và di chuyển. Ngoài ra, bể cũng có các bộ phận phụ trợ như cửa thu rác, phên nén để dìm bao bì trong dung môi xử lý hóa chất, van xả nước, các móc treo... Bể có kích thước 0,5m3/ngăn nhưng có thể thay đổi tùy thuộc vào quy mô và hình thức quản lý thu gom. Khi xử lý bao bì thuốc BVTV, có thể dùng hỗn hợp n-hecxan ở lượng 1,5-2 lít/1.000kg bao bì làm cho 99% dư lượng thuốc còn sót lại bị tiêu hủy.


Sử dụng thuốc BVTV không đúng phương pháp và liều lượng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Sử dụng đúng, thuốc BVTV giúp đẩy lùi dịch hại, giữ năng suất cây trồng cao và ổn định. Nhưng trong quá trình lưu thông và sử dụng thuốc BVTV, nếu sử dụng không đúng và thiếu biện pháp phòng ngừa, thuốc sẽ gây những tác hại không nhỏ cho môi sinh và môi trường. Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước ta là có quá nhiều tên thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng. Theo ông Trương Quốc Tùng, Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam hiện nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ 400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại, giống như "ma trận” đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới 188 tên thương mại. Cùng với đó, trong cơ cấu thuốc BVTV, các loại thuốc có độ an toàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, thuốc BVTV sinh học chỉ chiếm dưới 20%, loại thuốc có thời gian cách li dưới 7 ngày cũng chỉ chiếm khoảng 13. Trong những thập niên cuối của Thế kỷ 20 và những năm đầu của Thế kỷ 21, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trí tuệ con người làm cho nền sản xuất tăng nhanh, nhưng môi trường đất, nước và không khí bị ô nhiễm nặng. Ở Việt Nam vào những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, nhưng bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi 21.400tấn/năm vào năm 1992, thậm trí tăng gấp ba 30.000 tấn/năm vào năm 1995 và diện tích đất canh tác có sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên 80-90%. Trong số đó, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33-82,20% trong tổng số lượng thuốc BVTV đã sử dụng. Thuốc trừ sâu cỏ chiếm tỷ lệ 3,30 - 11,90%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay đã có nhiều những tiến bộ trong công tác quản lý cung ứng, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là từ khi Luật Bảo vệ môi trường thực thi vào tháng 4-1994. Các nhà sản xuất hóa chất BVTV đã đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã và được bao gói pha chế sẵn rất thuận lợi cho người sử dụng. Theo đó, hiện có 900 loại hóa chất BVTV thương mại và hơn 300 hoạt chất BVTV phân theo hoạt tính lưu hành trên thị trường Việt Nam với mạng lưới cung ứng đa dạng. Mặt khác, hiểu biết của người dân về sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên đáng kể. Từ đó đặt ra trách nhiệm của các nhà quản lý, sản xuất và cung ứng. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa người dân vẫn chưa hiểu biết hết về sự nguy hiểm của thuốc BVTV, vẫn sử dụng thuốc và phân bón hóa học, các hoạt chất quá mức cần thiết và không đúng quy cách nên đất canh tác ngày càng xấu đi, dư lượng các phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngấm xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm các nguồn nước. Những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các dự án với dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại được triển khai để xử lý chúng và đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ môi trường, tuy nhiên do tính chất phức tạp của việc quản lý, xử lý các loại hóa chất này đã và đang trở thành thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước những tác hại tiềm tàng của các loại thuốc BVTV với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 - 8- 2006 phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Có thể Bao ve thuc vat nói, chúng ta đã có một hệ thống các quy định về quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, trước thực tế đáng báo động do tác hại của thuốc BVTV gây ra, đã đến lúc cần xây dựng các quy định đồng bộ về quản lý tác hại của thuốc BVTV tới môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Nguyễn Sáng - Thanh Tùng. Thống kê của cơ quan chức năng, hiện Lạng Sơn có khoảng 36 loại thuốc BVTV, Lào Cai có khoảng 18 loại thuốc BVTV cực độc, không được phép sử dụng đã nhập lậu qua biên giới và đang được bày bán công khai. Trong đó, có những loại Việt Nam đã cấm sử dụng từ những năm 1980 như: Thuốc trừ sâu 666, thuốc trừ cỏ 2.4.5 T Brochtox, Decamine, Veon.... Còn theo Tổng cục Hải quan, hiện nay các mặt hàng thuốc BVTV được nhập lậu vào Việt Nam ngày càng tinh vi và rất khó phát hiện, vì phần lớn các đối tượng buôn lậu thuê bà con khu vực biên giới vận chuyển thuốc BVTV số lượng ít, đi đường mòn, đường tắt. Trên 80% số thuốc BVTV trôi nổi hiện nay đã nhập lậu theo dạng này. P.N.L. Robot phun thuốc trừ sâu chạy trình diễn trên đồng ruộng - Ảnh: Thanh Dũng. Tuy nhiên, việc lạm dụng, sử dụng không đúng hướng dẫn thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp đang ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe và đời sống nhân dân.Hiện cả nước có khoảng 70% trong số 15-20 triệu người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV, đã có triệu chứng ngộ độc. Mỗi năm cả nước xảy ra hơn năm nghìn ca nhiễm độc hóa chất BVTV phải điều trị tại các cơ sở y tế, trong đó hơn 300 trường hợp tử vong... Những hậu quả gây ra là do nhận thức của người dân. Tuy nhiên, một phần là do công tác hướng dẫn, tuyên truyền của các ngành chức năng chưa thật sâu rộng để bà con nông dân hiểu rõ tác hại của thuốc BVTV gây ra khi dùng không đúng. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1946/QĐ-TTg về việc xử lý triệt để và phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất BVTV tồn lưu trên phạm vi cả nước, có thể coi là một trong những động thái quyết liệt nhằm giải quyết triệt để vấn đề này. Theo đó, từ năm 2010 đến năm 2015, tập trung xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường tại 240 điểm tồn lưu gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Từ năm 2016-2025, tiếp tục điều tra, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường tại 95 điểm tồn lưu còn lại. Các ngành chức năng cần tuyên truyền bằng các biện pháp quyết liệt hơn để người dân biết rằng chất độc có thể ảnh hưởng tính mạng của chính mình, đến cả các thế hệ con cháu để người dân hiểu và cẩn trọng hơn. Vì vậy, bà con cần sử dụng thuốc BVTV một cách hiệu quả, chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và tuân thủ theo đúng hướng dẫn trên nhãn mác, bởi trong một loại thuốc khi đóng gói hay chai bắt buộc phải ghi trên nhãn mác, ngày sản xuất, hạn sử dụng, liều lượng, quy cách... Có như vậy mới hạn chế được tình trạng dùng thuốc BVTV một cách tùy tiện, không đúng quy trình hướng dẫn, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hủy hoại môi trường nghiêm trọng.. ,Hợp quy muỗng theo QCVN 12-3:2011/BYT 0903 587 699
 VIPA cũng sẽ đẩy mạnh việc phản biện, thẩm định xã hội về thuốc BVTV, góp ý kiến vào các văn bản pháp quy, hợp tác chặt với Cục BVTV trong việc quản lý thuốc BVTV; hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh. Đ.C.P. Đến nay, nạn nhân của vụ ngộ độc thức ăn ngày 12/3 vẫn còn 33 người đang phải nằm viện. Vụ việc cũng khiến công nhân của Công ty giày Hong Fu và Công ty Rollsport đóng tại Cụm công nghiệp Hoàng Long, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngừng việc tập thể trong những ngày qua.Nhằm giải quyết sự việc, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Thanh Hóa, ông Lê Đình Thọ vừa chủ trì hội nghị bàn biện pháp giải quyết. Các đơn vị liên quan đều nhận định, để xảy ra tình trạng này là điều đáng tiếc, gây thiệt hại cho người lao động và doanh nghiệp, ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội; xác định nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý Nhà nước về cụm công nghiệp, về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh an toàn lao động chưa chặt chẽ. Đây là những loại rau, quả có nguy cơ cao mất an toàn thực phẩm. Kết quả kiểm tra cho thấy, với rau ngót, có 7/25 mẫu phát hiện dư lượng thuốc BVTV vượt mức tối đa cho phép, chiếm 28%; 18 mẫu an toàn, chiếm 72%, trong đó 15/25 mẫu phát hiện thuốc dưới mức cho phép và 3 mẫu không phát hiện dư lượng thuốc. Về mướp đắng, có Bảo vệ thực vật 2/25 mẫu phát hiện dư lượng thuốc BVTV vượt mức giới hạn cho phép, chiếm 8%; 23/25 mẫu an toàn, chiếm 92%. Trong cả nước hiện có 260 kho chứa thuốc BVTV, chủ yếu lưu giữ các loại thuốc BVTV đã hết hạn sử dụng qua công tác thu giữ, thanh tra. Nhưng toàn bộ số thuốc độc hại này chưa được tiêu hủy theo đúng qui định, việc lưu giữ bảo quản chưa được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do. Khảo sát thực tế thì các kho chứa hóa chất này tồn lưu hầu hết hệ thống thoát nước gần như không có nên khi mưa lớn tạo thành dòng nước mặt, gây ô nhiễm nước ngầm, nước mặt, ô nhiễm đất xung quanh và gây nguy hiểm cho người dân sống quanh khu vực.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét